1. Một số khái niệm
Theo khoản 1 Điều 179 Bộ Luật Dân sự 2015: "Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản." đồng thời theo quy định tại Điều 180 Bộ luật Dân sự 2015, chiếm hữu ngay tình là " việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu."
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì: “Người thứ ba ngay tình khi tham gia giao dịch dân sự vô hiệu là người được chuyển giao tài sản thông qua giao dịch mà họ không biết, không buộc phải biết tài sản đó do người chuyển giao cho họ thu được từ một giao dịch dân sự vô hiệu”.
Như vậy, có thể hiểu, người thứ ba ngay tình là người đang chiếm hữu tài sản ngay tình, nghĩa là người đó có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu vì không biết và không buộc phải biết rằng người đã thực hiện giao dịch với mình không có quyền chuyển giao đối với tài sản giao dịch. Họ hoàn toàn trung thực, ngay thẳng khi tham gia vào giao dịch đó.
2. Bảo vệ quyền lợi của người thứ 3 ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
2.1. Điều kiện để xác định người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự vô hiệu
Để xác định người thứ ba ngay tình cần những điều kiện sau:
Một là, trước khi người thứ ba tham gia giao dịch dân sự đã có một giao dịch dân sự trước được xác lập, thực hiện nhưng giao dịch trước đó vô hiệu.
Hai là, người thứ ba xác lập giao dịch phải ngay tình. Tức là trong trường hợp này, người thứ ba không biết hoặc không thể biết rằng mình tham gia giao dịch dân sự với người không có quyền định đoạt tài sản, hoặc đối tượng của giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó.
Ba là, người thứ ba tham gia vào giao dịch dân sự phải là người có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Nếu trong trường hợp mà họ không có đầy đủ năng lực hành vi thì họ phải có người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Bốn là, người thứ ba đã thực hiện nghĩa vụ và hưởng những quyền dân sự trong giao dịch do họ xác lập. Nói cách khác, họ đã nhận tài sản từ giao dịch và mục đích của giao dịch đã đạt được.
Năm là, tài sản thực hiện giao dịch phải là những tài sản phải được phép lưu thông trên thị trường. Bởi nếu là vật cấm lưu thông, thì người thứ ba buộc phải biết mình xác lập giao dịch dân sự bất hợp pháp và không tiến hành giao dịch.
Sáu là, mục đích và nội dung của giao dịch không được trái quy định của pháp luật và đạo đức xã hội
Bảy là, trình tự xác lập giao dịch tuân thủ đúng trình tự pháp luật.
Tám là, người thứ ba phải có yêu cầu được hưởng tài sản hoặc bồi thường thiệt hại khi tài sản giao dịch bị tịch thu sung quỹ Nhà nước, hoặc bị trả lại cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.
2.2. Bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Theo quy định tại điều 133 Bộ Luật Dân sự năm 2015 thì:
"Bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.
2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
3. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại."
Như vậy, so với BLDS năm 2005, quy định về người thứ ba ngay tình trong BLDS năm 2015 có một số điểm mới:
Một là, BLDS năm 2015 quy định rộng hơn về đối tượng giao dịch, thay thế cụm từ “động sản không phải đăng ký quyền sở hữu” bằng cụm từ “tài sản không phải đăng ký” và thay cụm từ “bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu” bằng cụm từ “tài sản phải đăng ký”.
Lý do được đưa ra là vì có những tài sản phải đăng ký nhưng không phải đăng ký quyền sở hữu.
Hai là, BLDS năm 2015 bổ sung thêm quy định bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp giao dịch dân sự trước đó vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Đây là quy định hoàn toàn mới so với BLDS năm 2005. Theo BLDS năm 2005, đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì tất cả các giao dịch với người thứ ba ngay tình đều không có hiệu lực trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. Quy định này dẫn đến thực trạng giao dịch dân sự trước đó bị vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký quyền sở hữu và chuyển giao cho người thứ ba ngay tình, người này căn cứ vào việc tài sản đã đăng ký quyền sở hữu đã thiết lập giao dịch, nhưng khi các đồng sở hữu tài sản khởi kiện thì tòa án vẫn yêu cầu người thứ ba phải trả lại tài sản.
Theo quy định của BLDS năm 2015 thì trong trường hợp này, giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực. Chủ sở hữu tài sản chỉ có thể yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại. Quy định mới này hoàn toàn phù hợp với Luật Đất đai và các văn bản pháp luật khác về thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu được xác định kể từ thời điểm đăng ký, đề cao giá trị của việc đăng ký tài sản, bảo vệ người ngay tình, góp phần ổn định các giao dịch dân sự.
Ví dụ 1: Chị C căn cứ vào Bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật xử cho anh A và chị B ly hôn để xác lập giao dịch chuyển nhượng QSDĐ đối với phần tài sản mà anh A được nhận theo phán quyết trong bản án. Trong thời gian chị C làm thủ tục đăng ký theo Luật đất đai thì Bản án bị sửa theo Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao. Theo đó tài sản mà anh A đã chuyển nhượng cho chị C nay thuộc về chị B. Như vậy giao dịch giữa anh A và chị C lẽ ra bị vô hiệu do anh A không có quyền định đoạt đối với tài sản này. Tuy nhiên, pháp luật vẫn công nhận giao dịch với chị C có hiệu lực pháp luật.
Ví dụ 2: vợ chồng ông A chết lập di chúc để lại di sản là 300m2 đất ở và căn nhà trên đất cho anh B (con duy nhất của vợ chồng ông A). Sau đó anh B đã thực hiện thủ tục đăng ký và tiến hành chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) và căn nhà trên đất trên cho bà C. Thời gian sau có anh D (người chưa thành niên) là con riêng của ông A yêu cầu chia di sản. Như vậy, di chúc của vợ chồng ông A bị vô hiệu một phần. Lúc này, bà C là người thứ ba ngay tình trong giao dịch nhận chuyển nhượng QSDĐ với anh B. Căn cứ khoản 2 Điều 133, quyền sử dụng đất của bà C là hợp pháp. Giao dịch giữa anh B và bà C vẫn có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, có thể thấy quy định về bảo vệ người thứ ba ngay tình trong các giao dịch dân sự vô hiệu được quy định trong BLDS năm 2015 được sửa đổi theo hướng cơ bản hoàn thiện hơn, khắc phục được những hạn chế của BLDS năm 2005, tạo ra sự ổn định trong giao dịch dân sự, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các chủ thể khi tham gia giao dịch trên tinh thần trung thực, ngay thẳng.
3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình
Việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể tham gia giao dịch. Pháp luật ưu tiên bảo vệ quyền lợi và lợi ích chủ sở hữu nhưng những quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình tạo một cơ chế điều hòa lợi ích giữa chủ sở hữu và người thứ ba ngay tình. Việc cân đối quyền lợi giữa chủ sở hữu và người thứ ba ngay tình có mục đích bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu hợp pháp trên tài sản, quyền lợi chính đáng, hợp lý hợp pháp của các bên tham gia giao dịch đồng thời xem xét đến việc đảm bảo tính ổn định của quan hệ dân sự, tránh những xáo trộn không cần thiết, khuyến khích các chủ thể tự bảo vệ quyền lợi của mình, góp phần xây dựng ý thức pháp luật của các bên trong quan hệ dân sự.
III. Kết luận
Như vậy, sau khi tìm hiểu về vấn đề trên, có thể thấy, pháp luật đã có sự bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình. Tuy nhiên việc bảo vệ này cũng cần phải đặt trên sự cân bằng với lợi ích của chủ sở hữu ban đầu. Đồng thời, công nhận giao dịch có hiệu lực là cách tối ưu để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình nhưng không phải trong trường hợp nào giao dịch của người thứ ba ngay tình cũng được công nhận có hiệu lực. Nếu công nhận giao dịch của người thứ ba ngay tình có hiệu lực thì họ nhận được tài sản giao dịch, nếu giao dịch của người thứ ba ngay tình vô hiệu thì quyền lợi của họ được bảo vệ bằng cách yêu cầu bồi thường thiệt hại.